Bệnh Dịch tả vịt do virút gây ra ở gia cầm và là một bệnh truyền nhiễm cấp tính. Có khá nhiều loại gia cầm dễ mắc căn bệnh này như vịt, ngỗng và thiên nga… Căn bệnh này được ghi nhận lần đầu tiên ở đất nước Hà Lan vào những năm 1923. Còn với địa bàn Việt Nam thì nó xuất hiện lần đầu ở Hà Nội trên đàn vịt nuôi năm 1969. Từ thời điểm đó đến nay căn bệnh đã dần lây lan trên diện rộng ở Đồng bằng Bắc Bộ và xuống cả các tỉnh Nam Bộ
Căn bệnh thường bị lây truyền qua đường hô hấp và tiêu hoá qua nước mắt, chất thải của gia cầm bị bệnh để lại. Do đặc điểm về chăn nuôi và hiện tượng di cư của vịt trời hoang khiến căn bệnh dần lan rộng cả nước đáng báo động. Chính vì vậy hôm nay chúng tôi xin giới thiệu chi tiết về căn bệnh này cho bà con nắm rõ.
Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh dịch tả vịt là bệnh truyền nhiễm cấp tính do một virus thuộc nhóm Herpes gây ra. Nó gây bại huyết, xuất huyết cho vịt với triệu chứng đặc trưng là sốt cao; sưng phù đầu, mù mắt, tiêu chảy phân trắng xanh, biểu hiện thần kinh nghẹo đầu. Bệnh gây thiệt hại nặng nề về kinh tế cho người nuôi do tỷ lệ chết cao (30 – 90%), giảm sản lượng trứng.

Triệu chứng dịch tả vịt
Vịt nung bệnh thường từ 3 – 7 ngày. Đôi khi ở đầu ổ dịch có một số con chết đột ngột khi chưa biểu hiện một triệu chứng. Vịt uể oải, nằm bẹp trên mặt đất, cánh sã, đi lại chậm chạp, không bơi lội theo đàn. Một số con viêm kết mạc mắt, mắt ướt (chảy nước mắt), thuỷ tinh thể bị đục và bị mù. Dịch mũi nhiều và bám nhiều chất dơ bẩn, vịt con mỏ nhợt nhạt. Vịt rụng lông, kêu khàn khàn (do vòm họng bị tổn thương).
Vịt bỏ ăn, tiêu chảy phân vàng xanh, đôi khi lẫn máu và vùng quanh lỗ huyệt rất thối. Vịt sợ ánh sáng, một số con có biểu hiện thần kinh, tỳ mỏ xuống đất, dương vật con đực thò ra ngoài và niêm mạc có nốt loét, đầu sưng do viêm não gây phù dưới da. Bệnh có tỷ lệ chết rất cao từ 30 – 90%, vịt đẻ sản lượng trứng giảm từ 30 – 60%.
Cách phòng bệnh

Bệnh dịch tả vịt có thể lây trực tiếp do tiếp xúc giữa vịt khỏe và vịt ốm hoặc vịt mang trùng. Lây gián tiếp qua đường tiêu hóa (thức ăn, nước uống) hoặc qua đường hô hấp. Hiện, không có thuốc chữa trị đặc hiệu bệnh. Khi phát hiện vịt bị bệnh, cần phải tiến hành nuôi nhốt để cách ly mầm bệnh; Thu gom, tiêu hủy ngay các con vịt ốm, chết; Tiến hành vệ sinh chuồng trại, thu gom phân rác để ủ hoặc chôn; Phun thuốc sát trùng chuồng trại, tẩy uế, sát trùng toàn bộ dụng cục chăn nuôi; Báo cho cơ quan thú y địa phương để biết các biện pháp phòng chống.
Khi đàn vịt bị bệnh, có thể can thiệp vaccine trực tiếp vào ổ dịch. Liều lượng có thể gấp 2 lần bình thường. Sau 7 – 8 ngày, những con vịt mang mầm bệnh sẽ chết. Những con chưa nhiễm bệnh sẽ có miễn dịch có khả năng chống lại bệnh. Những con vịt qua khỏi chỉ nuôi làm vịt thịt, không dùng làm giống. Ðồng thời bổ sung đường Glucose, điện giải (B – Complex với liều 2 g/l nước); men tiêu hóa, bổ gan (dùng sorbitol liều 2 g/l nước cho uống) nhằm tăng khả năng đào thải chất độc và tăng sức đề kháng cho vịt nuôi.