Nghề nuôi cá kèo đang phát triển ổn định ở các tỉnh ven biển Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy nhiên, hiệu quả nhất là theo hình thức xen canh dưới chân ruộng làm muối hoặc nuôi quảng canh đến bán công nghiệp với tôm sú. Việc nuôi cá kèo theo những mô hình này không chỉ cho lợi nhuận cao mà còn cải thiện độ phì nhiêu của đất để nuôi tôm sú.
Đặc biệt, gần đây giá cá kèo thương phẩm trên thị trường đang có xu hưởng tăng mạnh, nguồn cung vẫn không đủ cầu, do đó nhiều người dân ồ ạt đầu tư sang nuôi cá kèo. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ chia sẻ đến bạn đọc kỹ thuật nuôi cá kèo trên ruộng muối mang lại hiệu quả và năng suất cao, góp phần đa dạng nhiều loại thuỷ sản trên cùng một diện tích nuôi trồng.
Nguồn nước nuôi cá kèo
Do đặc điểm cá kèo sống và thích nghi với mọi nguồn nước có độ mặn từ 0 – 40%0, thích hợp nhất là 10 – 25%0, nên việc nuôi xen canh sau thu hoạch muối hoặc tôm sú rất phù hợp.
Chuẩn bị ao nuôi
Nuôi cá kèo xen canh trong ao nuôi tôm sú không có tác dụng cải tạo nhiều. Do ao bằng phẳng, có lớp bùn ở đáy ao, có bờ bao cao chắc chắn; hệ thống cống cung cấp nước khá hoàn chỉnh. Còn với ruộng muối thì phải xử lý cho nước ra vào nhiều lần để hạ độ mặn. Với ao nuôi cá kèo, tốt nhất là làm hàng rào bằng nylon cao 0,5 – 0,6 mét để phòng cá kèo trượt đi khi có mưa to cũng như đề phòng cá lóc vào ao nuôi.
Trước khi thả giống phải xiết cạn đáy ao nuôi phơi nắng, bón vôi CaCO3 100 – 150 kg/ha và diệt cá tạp (chủ yếu cá bống tượng và cá lóc) bằng cây thuốc cá hoặc saponin, lấy nước vào thông qua lưới cước đạt độ sâu 25 – 30 cm là được. Sau 5 – 7 ngày, gây tảo bằng cách hòa tan 20 – 25 kg phân gà/ha với 5 kg phân urê và DAP tạt đều khắp ao nuôi (độ PH phù hợp là 7,5 – 8,5). Nếu không có phân gà thì dùng thay thế cám và bột đậu nành.
Chọn nguồn giống và thả giống
Giống cá kèo hiện chưa được sản xuất nhân tạo. Nguồn giống chủ yếu là mua của ngư dân ven biển vớt hoặc kéo lưới ở bãi bồi ven biển hoặc trong rừng ngập mặn ven biển. Vậy nên kích cỡ không đồng đều. Mật độ thả giống tùy thuộc vào mô hình. Nuôi quảng canh thì bình quân 8 – 10 con/m2. Nuôi công nghiệp 40 – 50 con/m2. Thả giống vào lúc chiều mát để tránh sốc cá.
Cách cho ăn và chăm sóc
Cá kèo chủ yếu ăn rong tảo, phù du trong nước và trong đất có nhiều bùn. Hai tháng đầu không cần cho ăn thêm; muốn tăng nguồn thức ăn. Thường xuyên cho nước vào và xử lý bằng cách bón phân (phân gà) để sinh rong tảo. Từ tháng thứ hai, cho ăn thêm cám hoặc thức ăn công nghiệp. Nếu nuôi công nghiệp mật độ dày thì nên tăng cường thức ăn công nghiệp dạng viên. Tùy thuộc kích cỡ của cá.
Cá kèo ít xuất hiện bệnh (thời gian gần đây xuất hiện phình bụng do thức ăn có độ đạm cao và thừa thức ăn) lại mau lớn. Sau 4 – 6 tháng nuôi (tùy loại giống), có thể thu hoạch được 40 – 50 con/kg. Nuôi quảng canh nếu chăm sóc, quản lý tốt sẽ cho năng suất 500 – 700 kg/ha. Còn nuôi công nghiệp cho năng suất tới 6 – 8 tấn/ha.
Thu hoạch
Chi phí nuôi cá kèo thấp, vốn đầu tư công trình nuôi không nhiều. Nguồn giống có sẵn tại địa phương, dễ nuôi, dễ chăm sóc. Phù hợp với mọi trình độ của người dân, giải quyết việc làm lúc nông nhàn. Ngoài ra còn có thị trường tiêu thụ ổn định, bán được giá 55 – 60 ngàn đồng/kg.
Cá kèo ít xuất hiện bệnh
Tại Bạc Liêu, mô hình nuôi cá kèo trên ruộng muối rất thành công. Cho nông dân năng suất và thu nhập cao. Bạc Liêu thả nuôi cá kèo trên ruộng làm muối tập trung ở huyện Đông Hải, Hòa Bình và thị xã Bạc Liêu.Với giá cá kèo thương phẩm trên thị trường trên 100 ngàn đồng/kg, nông dân cho lãi khá cao. Đặc biệt, gần đây giá cá kèo thương phẩm trên thị trường liên tục tăng mạnh, trong khi đó nguồn cung vẫn không đủ cầu, do đó nhiều người ồ ạt đầu tư sang nuôi cá kèo.
Việc bà con diêm dân mạnh dạn sản xuất luân phiên một vụ cá kèo trên ruộng muối mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện cuộc sống kinh tế gia đình đáng kể. Để việc nuôi cá kèo thật sự có hiệu quả, góp phần vào sự đa dạng hóa các loại mặt hàng thủy sản trên cùng một diện tích sản xuất, tỉnh Bạc Liêu chỉ đạo ngành chức năng cần quan tâm tới việc nghiên cứu, sớm hoàn chỉnh và đưa vào ứng dụng quy trình sinh sản nhân tạo, giúp người nuôi chủ động nguồn giống, mở rộng diện tích sản xuất.